Thursday, January 24, 2013

Quê Mẹ - Tân Nhàn



Quê Mẹ
quê hương xưa hoài niệm, tuổi thơ thơm ngọt , ruộng đồng bát ngát
nắng lấp loáng chiều vàng mênh mang chân trời ta lưng trâu về nghe xa lời mẹ gọi
đơn sơ mái tranh nghèo cò thương con dại, lặn lội phương xa
vách núi gió ùa về, đêm co ro ngồi, nghe mưa đông lạnh thương ai mong ai.
phận đời nào trôi..... cơ cực nhiều lam lũ gió sương
nơi quê xưa nghèo lắm đêm năm canh mòn mỏi
ngày tha hương xứ người từng đêm vẫn nhớ thương
chim ơi mang lời nhắn theo mây xa về nhà
quê hương ơi ngày nào trẻ thơ gom nhặt từng nhành lúa chín
nắng cháy rát ngày hè xa xa ngôi trường ,đôi chân băng rừng qua bao chặng đường về
rung rinh đám hoa dại, cỏ cây bên đường, rộn ràng tiếng hát
bé gái dáng hiền hòa, dân ca mơ màng, quê hương em là trăm câu dân ca
nồng nàn lời ru trên tay m vành nôi ấm giấc mơ
quê cho ta nhiều lắm sông kia ko ngừng chảy
ngày vinh hoa xứ người giờ còn đó lớn khôn, luôn mang trong lời hát câu dân ca ngọt lành............./.
chân mây xanh vời vợi đò ngang qua chiều một dòng bát ngát
tiếng sáo vút đầu làng thênh thang con diều , ta theo nhau về bên hiên nhà gọi mẹ
thân thương góc sân nhà, vòng tay ôm mẹ nghẹn ngào khóe mắt
tiếng trống thúc ngoài đình, đêm nay trăng hội, ai say men tình câu ca quê em
dịu dàng vầng trăng xưa thanh bình tròn câu hát bé thương
xa bao nhiêu là nhớ đây rưng rưng k niệm
kìa ai ơi quê mình đẹp hơn những bức tranh
xanh bao la tình thắm nghe thơm hương ngọt lành
nồng nàn lời ru trên tay mẹ vành nôi ấm giấc mơ
quê cho ta nhiều lắm, sông kia không ngừng chảy
này bao nhiêu chân tình còn xanh mãi
thương nhớ ngày xưa khi còn nằm nôi nghe mẹ hát câu dân ca ngọt lành
đêm trăng thanh vời vợi hồn ai mơ màng nghe xa xa từng lời mẹ ru con à ơi 




ƯỚC VỌNG ĐOÀN VIÊN
Con sông chảy qua bao mùa thương khó
Đục một dòng bồi, lỡ bến phù sa
Thương MẸ áo vai sờn nắng gió
Nhớ con xa khàn giọng tiếng ơi à .

Thương tóc trắng như cánh cò , bóng vạc
Ngày trầm ngâm , đêm trăn trở mong con
Xưa vì chồng hy sinh quãng đời son
Nay lo cháu , nhớ con, buồn ly biệt .

Mỗi thân cau là một niềm tha thiết
Từng dây trầu là một nỗi ước mơ
Bóng thời gian đọng trên tóc bạc phơ
Cho vầng trán thêm nếp nhăn khổ lụy .

MẸ như nắng xuyên mù sương thế kỷ
Mang hương nồng sưởi ấm cõi hồn con
Như ánh sáng của vầng trăng nguyên thuỷ
Ru con đi vào giấc mộng đêm tròn .

Mẹ thầm lặng trao lời theo mây gió
Biết con vì nghịch cảnh phải lìa quê
Ngày con đi không hẹn sẽ quay về
MẸ thổn thức, môi nghẹn lời , mắt đỏ .

Dù không hứa , MẸ ơi ! Xin chờ ngõ
Con sẽ về thăm lại cảnh thôn trang
Thăm dòng sông kỷ niệm ,bến đò ngang
Và thăm MẸ , cháu , em , thăm tất cả .

Từ dâu bể của phương trời xa lạ
Nẩy mầm xanh trong ước vọng đoàn viên
Khi Xuân thắm tưng bừng trên phố xá
Sẽ có con về bên bóng MẸ hiền .

HUY VĂN

Thursday, January 17, 2013

VỀ QUÊ LẦN CUỐI / Văn Quang– Viết từ Sài Gòn

 
 
 
Văn Quang và Linh mục Thao.

Rất bất ngờ, vào dịp cuối năm 2012, các ông Nhất Giang và Vi Túy từ Úc gọi điện thoại cho tôi với một câu hỏi cũng rất “giật gân”:

“Anh có muốn về Thái Bình không?”

Tôi nghĩ hai ông này định dỡn mặt với mình đây. Tôi còn đang phân vân tìm cách đối phó để khỏi rơi vào bẫy việt vị, Nhất Giang nói ngay:

“Thật đấy, chuyến này báo Văn Nghệ sẽ đi làm từ thiện ở Thái Bình, quê hương anh đấy. Anh thấy thế nào?”

Tôi trả lời không cần suy nghĩ:

– Các anh làm từ thiện từ Ðồng Bằng sông Cửu Long đến Campuchia, rồi Huế, Pleiku, Kontum, chỉ còn thiếu miền Bắc. Ðồng bào đói khổ thì ở đâu cũng là người Việt mình cả. Sao lại không ra miền Bắc một chuyến nhỉ.

Vi Túy hỏi rất thành thật:

– Theo anh, miền Bắc còn nhiều gia đình nghèo lắm không?

– Ở đâu cũng có người nghèo trên khắp giải đất VN này. Ở miền Bắc, họ hàng tôi còn nhiều, nhất là ở tỉnh Thái Bình mà các anh vừa đề cập tới. Có những người “trên không chằng, dưới không rễ”, nói rõ ra là họ không có người thân, không có họ hàng hang hốc với chính quyền địa phương, phần đông còn nghèo khó là cái chắc, chẳng khác gì những người ở các vùng quê miền Nam đâu. Chưa nói đến trường hợp như mấy đứa cháu tôi, sự nghèo khổ còn thê thảm hơn, kéo dài suốt từ năm 1954 tới bây giờ. Tôi kể lại sơ lược sự thật đó để các anh hiểu rõ hơn.
 
Ðồng bào Thái Bình đến nhận Quà Úc

Nỗi khổ từ “muôn năm cũ”

Năm 1954, sau khi gia đình tôi vào Nam, anh cả tôi ở lại miền Bắc bởi anh theo kháng chiến chống Pháp từ những năm 1949. Như tôi đã có lần tường thuật với bạn đọc về cái chết oan uổng của ông anh cả tôi. Anh đang là chính trị viên, nhưng anh bị sốt rét nên sau khi đi bệnh xá, được nghỉ phép về làng dưỡng bệnh. Gặp ngay đợt cải cách ruộng đất, phong trào đấu tố được “phát huy” lên đỉnh điểm. “Chỉ tiêu” của làng tôi là phải đấu tố 3 anh địa chủ. Thế là ông anh tôi, vốn là con ông chánh tổng, bị lôi ra đấu tố rồi xử bắn. Ðể lại vợ và 3 đứa con nhỏ, có cháu mới 2 tuổi, cháu lớn nhất mới 6 tuổi. Bà vợ anh không chịu nổi cảnh nhục nhã này nên đã đâm đầu xuống ao nhà tự tử. Mấy đứa con nhỏ bị đuổi ra ở một túp lều lá trong khu vườn chè nhà tôi. Cả làng, kể cả người thân trong họ, cũng không dám giúp đỡ bất cứ thứ gì cho các cháu. Một lần các cháu mò cua bắt ốc, bắt được mấy con cá nhỏ ngoài đồng, mang về đến gần nhà, vô phúc gặp một anh dân quân du kích bắt đứng lại khám xét. Thấy mấy con cá, anh dân quân này quả quyết rằng hai đứa ăn cắp cá, anh ta mang đổ ngay mấy con cá xuống ao làng. Mấy đứa cháu tôi sống nheo nhóc trong hoàn cảnh đó. Tôi không muốn dài dòng về nỗi khổ này của các cháu. Chỉ biết rằng nỗi nghèo khổ đó đã theo đuổi các cháu từ năm 1954 đến nay. Một cháu đã mất tại Nam Ðịnh, một cháu bỏ làng ra Hà Nội sống cuộc sống lầm than cho đến bây giờ.

Tôi kể lại chuyện này để các anh hiểu thêm ở miền Bắc còn nhiều gia đình nghèo khổ, cái nghèo “tích lũy” lại từ bao năm nay, đôi khi hơn cả miềnNam. Ở những làng quê Thái Bình không thiếu những gia đình như thế. Các anh đại diện cho bà con người Việt ở nước ngoài phát quà cho bất cứ tỉnh nào ở miền Bắc cũng sẽ gây xúc động cho bà con nghèo trong nước và gây được một tiếng vang đáng kể đấy. Một việc nên làm và không phải ai cũng làm được.

Ông Nhất Giang kết luận một câu hỏi gọn lỏn:

– Vậy anh có đi không? Chúng tôi lấy vé máy bay nhé.

Tôi “nóng máy” gật ngay: “Ði thì đi”.

Kinh Kha qua sông Dịch

Thế là chuyến đi bất ngờ của tôi về quê hương được ấn định từ ngày 25 đến 27-12 vừa qua. Thật ra từ mấy năm trước, mỗi lần báo Văn Nghệ về VN tặng quà, tặng nhà tình thương cho đồng bào nghèo, tôi vẫn còn đủ sức “chiến đấu” với anh em, từ Lộc Ninh đến Biển Hồ Campuchia, đến Tiền Giang, Ðà Lạt tôi đều có mặt. Nhưng mỗi năm tuổi một cao, sức yếu không còn đủ sức “trường chinh” nữa. Năm nay đã 80, tưởng rằng anh em cho yên thân “dưỡng già” trong cái chung cư mục nát này. Nhưng tiếng gọi của quê hương, của những người nghèo khó lại bất ngờ bật dậy, nói theo kiểu chữ nghĩa linh tinh ở đây là nó bật dậy “đột xuất”!

Tôi theo dõi tin thời tiết trên truyền hình, miền Bắc đang vào đợt rất lạnh, có hôm dưới 13 độ C, tôi hơi lo cho “cái thân già” này. Nhưng nhớ lại những ngày nằm trong trại tù cải tạo ở Sơn La, trời lạnh 3 độ C mà chiều vẫn phải tắm nước suối lạnh buốt còn chịu được thì có xá gì cái lạnh Hà Nội. Thế là thêm “dũng khí” ra đi, cứ như Kinh Kha qua sông Dịch vậy. Ði chuyến này rồi về có “bỏ mạng nơi sa trường” cũng đáng lắm.

Xin bạn đừng cho rằng tôi “quan trọng hóa” chuyến đi này. Ở vào tuổi tôi, nhiều bạn tôi đã ra đi, nhiều bạn mới năm trước còn dong chơi đây đó, nay đã nằm bẹp, muốn đi đâu cũng không đi nổi. Bây giờ, tôi đi bộ hàng ngày chỉ 15 phút đã thở “bở hơi tai”. Biết mình sức yếu rồi, chỉ còn điều an ủi cuối cùng là “làm được cái gì thì cứ làm, đi được đến đâu thì cứ đi”. Chẳng có điều gì báo trước cho cỗ máy xài đã 80 năm, không hư chỗ nọ cũng hỏng chỗ kia, lắp vá lung tung, đến lúc nó “bung” là hết lết nổi. Do vậy mà chuyến đi của tôi hoàn toàn nằm ngoài dự tính và ngoài cả ý muốn, nhưng cũng phải “liều”. Bạn đã đọc câu chuyện vui tôi gửi đến quý bạn tuần trước: Ở VN “không liều thì không sống được”. Cho nên tôi đi chuyến này cũng là liều. Bởi tôi biết rất rõ, đi với “cánh Văn Nghệ Úc” là đi liên miên, ngồi xe vào đường làng xóc như nhảy mambo, cuốc bộ đường ruộng hàng vài cây số, đi liên miên để đến được nhiều nơi.

Ðầu năm, cho tôi được tậm sự đường dài với bạn đọc thân mến của tôi thế thôi. Năm sau chẳng biết còn đủ sức, đủ minh mẫn để hầu chuyện bạn đọc nữa không.

Người Sài Gòn tiết kiệm cả đêm Giáng Sinh

Ðêm 24-12, tôi đón Giáng Sinh ở Sài Gòn, vốn lười đi và tiết kiệm nên nằm nhà coi Ti Vi. Từ ngày phố xá Lê Lợi, Nguyễn Huệ trang hoàng đón Giáng Sinh và Năm Mới, tôi chưa hề bước chân ra đến mấy con phố chính rộn ràng đó. Dường như với người già ở thành phố này, nói chung, họ vẫn nghĩ năm nào cũng như nhau thôi, có đi xem cũng chẳng thấy gì khác. Vả lại năm nay đời sống quá khó khăn, những thứ đèn đóm xa hoa, năm nào cũng phải có cho đủ “lệ bộ” thôi, chứ khó mà vui nổi khi còn trăm thứ lo bù đầu. Vô tình, những thứ đó dành cho những người giàu hay ít ra cũng đủ ăn đủ mặc. Dân nhà nghèo năm nay lo chạy gạo, lo thất nghiệp, tiết kiệm cả đến một cuốc xe đi hưởng thú vui không mất tiền, tức là không mất “phí”. Cái gì chứ nghe đến “phí” là dân nghèo hết hồn rồi. Mất tiền đổ xăng, chẳng lẽ không uống ly nước mía, thôi, thà ở nhà, tiết kiệm được cho gia đình bữa ăn sáng, để dành tiền nộp phí sử dụng đường bộ. Ðấy là một sự thật, ít ai nghĩ đến.

Tôi chỉ dám thức đến 11g đêm bởi sáng sớm hôm sau, 05giờ đã phải thức dậy ra máy bay. Coi như phải “bỏ quên đêm Giáng Sinh”. Chuyến Jestar cất cánh từ Tân Sơn Nhất lúc 07g30 phút, sau 1g45 phút sẽ đến sân bay Nội Bài. Jestar là hãng hàng không giá rẻ nhất tại VN bây giờ. Nếu lấy vé trước 1 tháng hoặc 1 tuần, giá sẽ rẻ hơn nhiều. Chỉ bằng nửa giá Air VN và ngang với giá xe lửa có giường nằm. Khoảng hơn 1 triệu đồng 1 lượt Saigon –Hanoi. Tất nhiên bạn lấy vé khứ hồi sẽ còn được bớt thêm nữa. Máy bay lớn, khoang hành khách chật chội, tất nhiên không “sang” bằng những hãng khác, nhưng cũng không tệ. Khi máy bay sắp hạ cánh, phi hành đoàn thông báo nhiệt độ tại Nội Bài là 14 độ C. Cô gái ngồi cạnh tôi lè lưỡi rùng mình. Cô vận chiếc quần soọc để khoe cặp đùi dài trắng nhễ nhại. Có lẽ cô ra Hà Nội lần đầu.

Tôi “trang bị” khá kỹ, áo khoác dầy cộm, khăn len quàng cổ, những thứ hàng “son” mua ở chợ Ðà Lạt từ mấy năm trước, nằm kỹ trong đáy tủ, bây giờ mới “phát huy tác dụng”.

Về quê hương mà chưa biết đó là quê mình



Từ sân bay Nội Bài, chiếc xe 16 chỗ chạy thẳng một lèo về Thái Bình. Con đường khá dài, ngồi ê ẩm mới tới nơi tôi đã sinh ra và lớn lên rồi bỏ xứ ra đi. Gần 3 tiếng sau chúng tôi tới giáo sứ Phục Lễ. Ngôi nhà thờ rất lớn, với những hàng cây được nắn tỉa công phu quanh những khu vườn sạch sẽ làm tôn thêm vẻ trang nghiêm của nơi này. Người đón tiếp chúng tôi là cha Thao, rất lịch lãm, trẻ và đẹp trai không kém gì tài tử màn bạc. Cha đãi đoàn một bữa cơm khá thịnh soạn. Mọi chương trình đã được hoạch định từ trước cả chỗ ăn chỗ ngủ. Nhưng để khỏi làm phiền nơi tôn nghiêm và có tự do hơn, chúng tôi xin phép cha cho ra nghỉ ở khách sạn bên ngoài.

Ðó là một kiểu “nhà nghỉ” ở giữa những con đường lớn. Có nơi treo bảng là “nhà ngủ” cho tiện việc sổ sách. Phòng chật hẹp, cũng có máy lạnh, toilet nhưng có vẻ hơi bầy hầy, bạn kiếm miếng xà bông cũng không ra. Ðêm giữa đồng quê nghe ếch nhái kêu cũng vui tai. Tôi chợt nhớ ra là tôi rời quê ra đi vào năm 1950, đến nay đã hơn 60 năm tôi mới được ngủ lại ở chính quê hương mình. Nhìn khung cảnh đồng quê trước mặt mơ hồ trong ánh đèn đêm, dường như nó vẫn vậy, không có gì thay đổi. Thay đổi chăng là ở con người. Tôi thật sự xúc động khi nhớ lại những con đường, những mái nhà, những ngôi trường tôi đã từng ê a học và những khuôn mặt từ xa xưa. Tất cả như còn đang lẩn khuất đâu đây và đang chờ đợi ngày chúng tôi trở về. Nhưng đồng thời với cảm tưởng ấy là ý nghĩ thực tế hơn, có lẽ đây là lần cuối tôi nghỉ lại nơi này. Niềm vui và nỗi buồn đan xen trong cái đêm “hội ngộ” hi hữu này. Ðêm đó dù rất mệt nhưng tôi vẫn không tài nào nhắm mắt ngủ yên được.


Sáng hôm sau trở lại nhà thờ Phục Lễ, nghe các giáo dân nói chuyện tôi mới biết giáo sứ này thuộc xã Quỳnh Châu, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình. Vậy mà từ hôm qua tôi cứ tưởng giáo sứ thuộc huyện khác, mãi đến lúc đó tôi mới biết xã này thuộc huyện mình. Cách huyện lỵ Quỳnh Côi có 4 km, tức là cách làng An Hiệp của tôi 9 km. Bỗng dưng tất vả trở nên thân thuộc quá.

Ðúng 9 giờ sáng buổi phát quà bắt đầu ngay tại sân sau nhà thờ Phục Lễ. Chúng tôi thấy việc tổ chức phát quà cho đồng bào nghèo ở một nơi như thế này là rất phù hợp. Nếu tổ chức ở một trụ sở hay ủy ban nào cũng bất tiện vì khẩu hiệu cờ quạt lung tung… Buổi phát quà cho cả đồng bào theo đạo Thiên Chúa và đạo Phật, không hề có sự phân biệt nào. Hơn 100 người đã tề tựu đông đủ, vài người “giàu lắm” cũng chỉ có chiếc xe đạp cũ. Phần quà gồm 2 gói thực phẩm và 100 ngàn tiền mặt. Ðến nhận quà, hầu hết là các cụ già, các cô gái và em nhỏ vừa đủ tuổi xách được gói quà khoảng 4 kg. Quan sát những người dân ở đây, tôi không thấy điều gì khác biệt với những người dân ở các địa phương miền Nam mà tôi đã từng đi qua. Có lẽ người nghèo ở đâu cũng giống nhau cả thôi, quần áo “thời đại si đa” đủ mốt, đủ màu, đủ quốc tịch, chữ ăng lê trên ngực áo đủ kiểu kể cả kiểu “I
you” trên áo các em nhỏ chưa đủ lớn khôn. Khác một chút là mùa lạnh nên ai cũng mặc vài ba chiếc áo chằng đụp nên có vẻ có da có thịt hơn.

Tôi cũng được anh em cử ra đứng phát tiền sau khi các cụ đã lãnh quà. Có cụ bê không nổi, rớt lung tung, người khác phải tới “khuân” giúp. Có cụ quên cả lãnh tiền, dù đã được nhắc nhở, tôi phải kéo áo cụ lại mời cụ lãnh giùm cho. Có cụ nói “các ông cho nhiều quá, chưa có “ông” nào cho nhiều như thế”.

Tiếng gọi nhau í ới, vài người xúm lại “thồ” mấy phần quà trên chiếc xe đạp cũ. Họ vẫn còn quen với kiểu phương tiện vận chuyển thời chiến tranh đi tản cư, di cư.

Ngay hôm đó đoàn lại tiếp tục đi đến 4-5 nhà thờ khác nằm trong địa phận cai quản của cha Thao ở giáo xứ này. Ðường làng nhỏ hẹp như bờ ruộng, có nơi xe gắn máy đi còn chật. Chúng tôi cuốc bộ từng chặng chừng 1-2 cây số. Thú thật, nếu không có mấy ông bạn mang giúp hành lý, tôi không đi nổi. Ở nơi nào bà con cũng có vẻ lạ lẫm với đoàn làm từ thiện từ nước ngoài về. Thậm chí có nhiều người chẳng biết nước Úc ở đâu, nếu không giải thích, họ vẫn cứ nghĩ rằng đó là nước Mỹ. Bà con ở miền này biết đến nước Mỹ và đồng đô la chứ quả tình không biết đồng đô la Úc hoặc đô laCanada. Xin bạn hiểu là rất nhiều người biết có đồng đô la chứ chưa nhìn thấy hoặc chưa được cầm đến bao giờ. Ðó là điều ngược hẳn với dân Hà Nội. Ai cũng biết giá trị của từng đồng đô la và nhiều người định giá trị nhiều món hàng bằng đô la và tiêu bằng đô la mạnh tay hơn các cụ từ nước ngoài về VN đấy. Suy ra từ đấy, ở miền Bắc sự cách biệt về giàu nghèo giữa thành thị và thôn quê quá xa. Xa hơn cả miền Nam.

Trở lại chính nơi chôn rau cắt rốn

Buổi chiều chúng tôi lại lên đường trở về Hà Nội. Trên đoạn đường đó, chúng tôi đi qua huyện Quỳnh Phụ và qua cầu Hiệp. Ðúng ra tên huyện cũ của tôi là Quỳnh Côi, nhưng sau này, các ông “nhà nước mới” sát nhập hai huyện Phụ Dực và Quỳnh Côi là một, đổi thành huyện Quỳnh Phụ. Rồi nhiều huyện, nhiều tỉnh thấy sự cai trị bất tiện nên lại tách lại các tỉnh huyện như cũ. Như Hà – Nam- Ninh, Vĩnh – Phúc – Yên…. Nguyên cái việc sửa tới sửa lui này cũng tốn hết biết bao tiền của công sức của nhân dân. Giấy tờ đều phải làm mới để rồi làm lại như cũ. Sự thiếu nghiên cứu, thiếu kinh nghiệm, với những bộ óc thích “đổi mới vô tội vạ” đã làm điêu đứng người dân không ít.

Ngày nay, cái phố huyện  nhỏ xíu bây giờ được nâng lên thành thị trấn và đặt lại cái tên Quỳng Côi quen thuộc, nhưng huyện thì vẫn là huyện Quỳnh Phụ.

Ði qua con đường đúng 5 cây số từ thị trấn về phố Bến Hiệp, tôi bồi hồi nhớ đến những năm tháng từ phố tôi đi học trường huyện. Con đường trải đá, hai bên đã mòn nhẵn, mỗi ngày có hai chuyến xe đò chạy từ Bến Hiệp đến tỉnh lị Thái Bình. Con đường đã in đậm thuở ấu thơ của tôi, thuở mới tập và thích làm người lớn, thuở bắt đầu biết yêu vụng nhớ thầm cô hàng xén hoa khôi của phố Hiệp. Bốn năm dài như thế, mỗi ngày đạp xe đi trên con đường cái quan này. In đậm trong khối óc trẻ thơ của tôi là vào năm 1943, hai bên bờ cỏ, dọc theo con đường này có rất nhiều người chết đói, nằm la liệt bên đường. Có những xác chết, vì không chôn kịp, đã cháy đen vì nắng như bị hỏa thiêu. Hầu hết họ là những người từ phương xa đến xin ăn ở huyện tôi. Nhà tôi đã bắt tôi phải nghỉ học cả tháng để tránh bệnh tật lây lan từ quãng đường kinh hoàng này. Bây giờ trở lại, đó là những hình ảnh bi đát nhất vẫn còn như trước mắt tôi.

Chùa làng Sơn Ðồng và ông sư tự thiêu

Ði gần hết quãng đường này, chúng tôi vì tò mò ghé vào làng Sơn Ðồng thăm ngôi chùa có vị sư mới tự thiêu cách đây hai tháng. Làng này cách làng tôi vài cái bờ ruộng và một lũy tre thưa. Bà chị ruột tôi lấy chồng ở làng Sơn Ðồng. Anh chị tôi có chừng 7- 8 đứa con hiện ở cả bên Mỹ. Các cháu đề nghị tôi ghé qua chùa thăm lại cảnh xưa có đúng như bức ảnh đã được đưa lên internet không và lý do nào nhà sư đã tự thiêu.

Chúng tôi đến ngôi chùa Sơn Ðồng vào buổi quá trưa “trời không nắng cũng không mưa,  chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung”. Không khí chùa ngoài vắng lặng, không một bóng người. Tôi lần ra phía sau chùa vãn cảnh, bất ngờ gặp được sư thầy, có lẽ là vị sư tạm thời trụ trì ở chùa này sau khi vị sư chính tự thiêu. Tôi gợi lại vài kỷ niệm cũ chứng tỏ mình là người cũ của địa phương này. Hồi đó bố tôi thường sai tôi sang chùa này mời cụ sư Hinh sang nhà tôi đàm đạo. Cụ sư Hinh rất phong khoáng trẻ trung nên tôi nhớ mãi tính cách đặc biệt của cụ. Vị sư thầy trụ trì mới này nhận ra ngay tôi là “người nhà”. Vị này tự giới thiệu tên thật là Phạm Tiến Hường.

Sư thầy ra gặp anh em trong đoàn và thuật lại chuyện vị sư đã tự thiêu. Thầy nói khá chi tiết. Tôi chỉ có thể tóm tắt vài điểm then chốt. Vị sư tự thiêu là thầy Thích Thanh Hoằng; tên tục là Nguyễn văn Mười. Thầy viết thư tuyệt mệnh nói rằng “Thầy không oán trách phật tử, tự thầy oán trách thầy”. Nhưng theo thầy Phạm Tiến Hường thì một buổi sáng thức dậy, thầy Thích Thanh Hoằng bị “người ta” lấy hết toàn bộ đồ dùng của thầy, trong đó có cả máy vi tính và nhiều sách vở. Thầy buồn lắm nên tự thiêu. Tôi không thể suy luận hai chữ “người ta” đây là sư thầy Hường đã ám chỉ nhân vật nào hay cơ quan nào. Vì một lý do nào đó, thầy Hường cũng chỉ nói hai tiếng “người ta”, nhưng bạn đọc thừa thông minh có thể hiểu đó là ai và tại sao thầy Hường không thể nói rõ hơn được. Thầy Hường chính là người đã ở bên và giúp đỡ săn sóc cuộc sống cho thầy Thích Thanh Hoằng từ 10 năm nay nên biết rất rõ. Thầy Hoằng đã đổ 10 lít xăng lên người để tự thiêu vào buổi sáng. Sau đó vài ngày, chùa định làm một đám tang lớn nhưng lại được phường xã đề nghị cho đám táng đi vòng quanh con đường phía ngoài chùa rồi an táng thầy phía sau miếng đất của chùa Sơn Ðồng.

Cây cầu Hiệp mới, nối liền Hải Dương- Thái Bình

Chúng tôi dừng lại chùa Sơn Ðồng khoảng hơn 1 tiếng, buổi chiều anh tài xế trẻ đưa đoàn ra Bến Hiệp. Ðây chính là nơi tôi đã sống suốt thời thơ ấu. Dãy phố có chừng vài chục căn nhà lầu, nơi có một số gia đình người Hoa làm ăn buôn bán cùng người Việt. Ngày nay chỉ còn lại là những dẫy nhà tranh hai bên đường. Chỉ có cái cầu Hiệp mới làm xong, đó cũng là đặc điểm nổi bật nhất của tỉnh Thái Bình.

Cầu Hiệp bắc qua sông Luộc, nối liền đường bộ giữa 2 tỉnh Hải Dương – Thái Bình, cầu này thuộc 2 xã Hưng Long (huyện Ninh Giang) Hải Dương và Quỳnh Giao (huyện Quỳnh Phụ) Thái Bình, được khởi công xây dựng từ năm 2008. Cầu Hiệp có chiều dài 542,5m, rộng 12m. Buổi chiều trời mưa dăng nhẹ như mưa phùn mùa đông, cây cầu uốn cong nổi lên trên nền trời khá hùng vĩ giữa vùng quê nghèo. Tôi nhớ đến những lần bọn nhóc chúng tôi trần như nhộng, bơi qua sông Luộc giữa mùa nước lớn, dòng phù sa đỏ quạch chảy cuồn cuộn, sang bên kia sông ăn trộm vài trái bắp với cái lý do ngây ngô rằng bắp Hải Dương mới ngon. Và chỉ bơi qua sông chạy trốn về bờ nhà khi có người đuổi theo hô hoán, đứng trên bờ chửi theo. Tuổi trẻ ngỗ nghịch có vài phút sống lại.

Cây cầu này khiến tôi nhớ tới cây cầu Bo, lối bắt đầu vào tỉnh lỵ Thài Bình, nơi bà ngoại tôi sinh sống. Mỗi lần tôi được “lên tỉnh”, nhìn thấy cây cầu Bo như nhìn thấy môt thiên đường mới. Ðó mới là ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi về quê ngoại. Tôi nhớ đến mấy câu vè của bọn học trò vẫn hát om xòm: “Thái Bình có cái Cầu Bo. Ðêm đêm trai gái lại bò lên chơi. Cứ 5 mét lại một đôi”.

Bây giờ Thái Bính có tới 2 cây cầu Bo, một mới và một cũ,  nằm song song, nhưng chuyến đi này tôi không đi qua cầu Bo. Chiếc cầu Hiệp đã thay thế, nhiều xe chạy đường Hà Nội đã thay đổi lộ trình chạy qua đường cầu Hiệp sang Hải Dương ngắn hơn và đường xá tốt hơn.

Buổi tối về đến Hà Nội, chúng tôi quá mệt mỏi chỉ còn nước lăn ra ngủ. Trong chuyến đi của đoàn có một ông bạn từ Cali cũng tháp tùng. Ông Tiến, tục gọi là Tiến râu, người nằm chung phòng với tôi và mang vác hành lý, giúp đỡ tôi rất nhiếu trong suốt cuộc hành trình này. Thế là có cả độc giả từ Mỹ về cùng làm từ thiện cho vui vẻ. Hà Nội đối với tôi chỉ là một trạm dừng chân đợi tàu xe. Nhưng cũng có nhận xét rất “vô tư” rằng người Hà Nội giàu hơn người miền Nam. Có rất nhiều nguyên nhân lý giải điều này sau khi tôi tìm gặp một vài người bà con, kẻ giàu nứt đố đổ vách, người nghèo kiết xác như đứa cháu tôi ở giữa lòng Hà Nội.

Buổi tối chúng tôi trở về Sài Gòn trên chuyến bay cất cánh vào 19g30 hoàn tất chuyến đi làm từ thiện lần đầu tiên ở miền Bắc. Thưa thật với bạn đọc, ba hôm sau hai bắp đùi tôi vẫn còn đau, leo lên cầu thang lầu 1 chung cư không muốn nổi. Thế mới thấy rõ mình đã “quá đát” và ngồi tiếc nuối thời trai trẻ. Nhưng dù thế nào tôi cũng bằng lòng với mình vì đã “làm được gì cứ làm, đi được đến đâu cứ đi”. Ðó chính là cuộc sống “có lý” của tuổi già, phải không bạn?

Văn Quang – 04-1-2013



 

Wednesday, January 16, 2013

Mộ Cô Vạn và Mộ Chú Đại








 Mộ Cô và Chú kề bên nhau

Thăm Mộ Chú Đại 15.12.2012 miếng đất phía bên trái là mộ Cô Vạn
 Các con cháu gia đình anh Bền


Vợ Chồng Phụng Dương và Yến con cô Vạn


Tuesday, January 15, 2013

Duy Tiên

Duy Tiên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm

Khánh thành cầu Yên Lệnh nối Duy Tiên với thành phố Hưng Yên
Duy Tiên là một huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Nam, phía bắc giáp Hà Nội, phía đông đối diện với thành phố Hưng Yên và huyện Kim Động của tỉnh Hưng Yên qua sông Hồng và huyện Lý Nhân, phía nam giáp huyện Bình Lục và thành phố Phủ Lý, phía tây giáp Hà Nội và huyện Kim Bảng. Diện tích chủ yếu của huyện là đồng bằng.

Mục lục

Hành chính

Huyện Duy Tiên có dân số vào khoảng 150.000 người, bao gồm 21 xã, thị trấn.
Huyện lỵ là thị trấn Hòa Mạc, một thị trấn khác là Đồng Văn. Các xã: Mộc Bắc, Mộc Nam, Chuyên Ngoại, Trác Văn, Châu Giang, Yên Bắc, Yên Nam, Đọi Sơn, Tiên Phong, Châu Sơn, Tiên Hải, Tiên Hiệp, Tiên Tân, Tiên Ngoại, Tiên Nội, Hoàng Đông, Duy Minh, Bạch Thượng, Duy Hải.

Lịch sử

Huyện Duy Tiên ban đầu vốn là huyện Duy Tân (維新縣), thành lập và đặt tên năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đời Lê Thánh Tông. Đến đời Lê Trung hưng, đầu niên hiệu Hoằng Định (1601-1619) do kiêng tên huý Kính Tông Lê Duy Tân, đổi là huyện Duy Tiên (維先縣).

Giao thông

Duy Tiên có tuyến trục giao thông là quốc lộ 1A, đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Bên cạnh đó còn có tuyến Quốc lộ 38 từ Đồng Văn đi Hòa Mạc - cầu Yên Lệnh - Hưng Yên và quốc lộ 38B nối từ Hải Dương qua Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định tới Ninh Bình. Về đường thuỷ, Duy Tiên có sông Nhuệ, sông Châu Giang.
Trên địa bàn huyện Duy Tiên đã và đang hình thành nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề. Đặc biệt, tại xã Hoàng Đông có trường đại học dân lập (Đại học Hà Hoa Tiên).[1]

Danh Nhân

  • Nguyễn Hữu Tiến

Thắng cảnh và di tích

Hình ảnh

Saturday, January 12, 2013

The Pictures


 
Xa Khơi - Anh Thơ

   
Chuyến Đò Quê Hương 

   
Câu Đợi Câu Chờ / Anh Thơ 

 
Cháu anh Phú con Bác Phái
 

Chị Ninh và Cháu Nội , phía trước là Phú Cô Vạn và Họat con anh Ninh

Chị Câm con của Bác Vinh Chị của Bố

Con gái Bác Vinh 102 tuổi Chị Cả

Trước cổng Làng Quan Phố, Bác biết những người trong gia đình 

Dâu của anh Chị Ninh và Cháu Nội

Em của Phú cô Vạn gia đình Chú Đại Hưng Yên 

Nhà Thờ trong làng Quan Phố

Các Học Sinh đi học về trên đường phố

Phía trước nhà của Bác Vinh chị Cả của Bố (102 tuổi)

Thursday, January 3, 2013

19.12.2012 Phi Trường Nội Bài

Phi Trường Nội Bài từ Phi Cơ qua Bus


Quốc Lộ 1A đường về Hà Nam và Hưng Yên 

Công và Phú trên Phi Trường Nội Bài Hà Nội
Xa Lộ ( đường Cao Tốc) từ Hà Nội về Hà Nam
Sơn cháu Bác Phái đón tại Phi Trường Nội Bài

Biển hiệu thương mại trên đường từ Phi Trường về Hà Nam
Phú và Sơn

Sân Bay Nội Bài 


Phú và Công

Cầu Thanh Trì vận tốc 60 cây số giờ / Tối đa không quá 80 trời mưa không quá 70
Phòng Chờ Đợi Tân Sơn Nhất


Sông Hồng
Phú và Công Phi Trường Tân Sơn Nhất

Xe Tram từ Phi Cơ vào Terminal

Nhà Nghỉ

Tân Sơn Nhất đi Hà Nội

Trạm thu lệ phí trên quốc lộ
Địa Phận Hà Nam


Cầu Yên Lệnh Hà Nam


Khu vực vào thành phố Hưng Yên



Phú và Công



Làng Quan Họ Quê Tôi - Anh Thơ